Có hay không trà đạo Việt Nam?
Văn hóa trà Việt chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc nhưng chúng ta vẫn có những nét riêng của mình và dần trở thành một nét văn hóa thưởng trà. Đó là cách uống trà bình dị, gần gũi, mộc mạc những cũng rất tinh tế, phù hợp với bản sắc văn hóa của mình. Cái bình dị, mộc mạc đó là ngồi nhâm nhi một ly trà xanh giải khát dưới mái hiên nhà trong những buổi trưa hè nắng nóng hay ấm áp trong những đêm đông giá rét.
Nước trà sóng sánh vàng xanh, hương trà tự nhiên thơm ngát, vị chát đắng ban đầu là nỗi gian lao, vất vả của những người lao động trồng trà. Sau vị ngọt mát chính là tâm hôn của người Việt, trọng nghĩa, trọng tình, giàu tình cảm. Vì vậy, chén trà là cả một bản sắc văn hóa tinh tế của mình, tạo nên một phong cách Trà Việt độc đáo. Như G.S Trần Ngọc Thêm nói: “Người Việt Nam mời nhau uống trà không phải đơn thuần là để giải khát, mà là để biểu hiện một phong độ văn hóa thanh cao, một sự kết giao tri kỷ, một tấm lòng ước mong hòa hợp, một sự tâm đắc của những người đối thoại. Người Việt Nam mời nhau uống trà là để bắt đầu một lời tâm sự, để bàn chuyện gia đình, xã hội, chuyện thế thái nhân tình, để cảm thấy trong chén trà có cả hương vị của đất trời, cỏ cây và muôn vật.
Từ xưa, những tiền nhân sành sỏi nghệ thuật uống trà đã từng nói “nhất thủy – nhì trà – tam bôi – tứ bình – ngũ quần anh” cũng phần nào nói lên được phong cách của trà Việt.
- Nhất thủy: Trong trà Việt, để có được một chén trà ngon phần quan trọng nhất chính là nước. Nước thường là nước do tuyết tan, nước mưa hứng ở giữa trời, nước lấy từ các con suối thiên nhiên hoặc lấy từ nước giếng sâu. Cách đun nước cũng hết sức cung phu. Không được đun nước bằng củi, dầu mà phải đun bằng than để không làm mất đi mùi vị của trà. Đun nước khoảng sôi sủi tăm, sôi đầu nhang, nhiệt độ vào khoảng 80 - 90 độ C. Các cụ tuyệt đối không dùng nước sôi để pha trà vì nước sôi sẽ làm hỏng mất mùi vị trà, làm cháy trà.
- Tam bôi tức là chén uống trà, các cụ thường chọn các loại chén hột mít, chén mắt trâu. Trước khi rót trà cần phải tráng qua nước sôi để làm nóng và tẩy vệ sinh.
- Tứ bình chính là ẩm pha trà. Trong các cuộc thưởng trà, tùy vào số lượng người thưởng trà “độc ẩm, song ẩm hay quẩn ẩm” nên các cụ có nhiều kiểu bình khác nhau. Trước khi pha trà cần phải rửa trà bằng một ít nước sôi, sau đó đổ đi… để cho trà nở đều và mang đậm hương vị nhất.
- Cuối cùng là ngũ quần anh tức bạn trà. Để tìm được một người bạn trà, biết thưởng thức nghệ thuật của trà, văn hóa uống trà rất khó, nên các cụ ngày xưa đã đưa nghệ thuật uống trà vào hàng chiếu trên của các bậc thi sĩ.
Đạo của trà Việt hẳn không phải là nghi thức tựa như nghi thức tôn giáo như của người Nhật Bản, và lại càng không phải ở cái cách thức pha. Nghĩ về đạo của trà Việt, không thể không nghĩ đến tâm hồn người Việt, người Việt không ưa lý luận, biện bác. Phải chăng, vì tâm hồn người Việt vốn bình dị, chân chất, nên người Việt không có truyền kỳ về trà? Có người nói, nghệ thuật ướp trà hương của người Việt là một tuyệt kỹ, khi nghệ thuật ấy gặp được người thưởng trà biết trân quý - đó là đạo...